Nâng cao giá trị cảm nhận của khách Ấn Độ đối với du lịch Việt Nam
Nguyễn Phạm Thuỷ Tiên
Khoa Du Lịch, Đại học Thăng Long
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch trong những năm gần đây được xem là một
trong những ngành có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng. Phát triển du lịch sẽ góp phần vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, mang lại nguồn thu ngân sách quốc gia, thu hút vốn đầu tư và xuất khẩu
hàng hóa tại chỗ, tác động tích cực đối với phát triển các ngành kinh tế có
liên quan. Du lịch còn góp phần thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, tạo
nhiều việc làm, mang lại thu nhập thường xuyên cho người lao động tại nhiều
vùng, miền khác nhau. Dưới góc độ xã hội, du lịch là một hoạt động nhằm phục vụ
nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí và học tập của con người, theo Nguyễn Hà Phương
(2021).
Theo Phạm Minh An (2019),
thu hút khách du lịch chi trả cao, lưu trú dài ngày là mục tiêu Việt Nam hướng
đến. Bên cạnh khách đến từ châu Âu, Mỹ... Ấn Độ với hơn một tỷ dân cũng được
đánh giá là "mỏ vàng" tiềm năng. Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn
Thanh Hải (2022) chia sẻ đây là một quốc gia rộng lớn, với dân số hơn 1,3 tỷ
người, khoảng 25 triệu khách ra nước ngoài một năm và sắp tới tăng lên 35 triệu.
Du khách Ấn Độ là thị trường chúng ta bỏ quên lâu nay, vì không hiểu được,
không nhận thức đầy đủ về họ.
Cũng theo Đại sứ Nguyễn Thanh Hải (2022), du
khách Ấn Độ có nhu cầu du lịch nước ngoài cao hơn công dân bất kỳ quốc gia nào
khác và Việt Nam là điểm đến hàng đầu với họ. Khách Ấn Độ chưa hiểu nhiều về Việt
Nam. Họ chủ yếu đến qua các chương trình hợp tác, xúc tiến thương mại và đầu
tư. Nhưng khi đã đến Việt Nam, các du khách đều thấy thích thú.
Theo CNBC (2023), khi nhắc
đến sự phục hồi du lịch ở châu Á, nhiều người vẫn chỉ nghĩ về sự trở lại của du
khách Trung Quốc. Tuy nhiên, khách Ấn Độ mới là những người tìm kiếm sớm nhất
các chuyến đi nước ngoài. Dữ liệu của Agoda (2023) chỉ ra từ tháng 1/2019 tới
tháng 5/2023 lượt tìm kiếm tới Việt Nam của khách Ấn Độ còn tăng thêm 390% so với
năm 2019. Dữ liệu từ công cụ theo dõi xu hướng du lịch Google Destination Insights (2022) cho thấy, lượng tìm kiếm
quốc tế về cơ sở lưu trú du lịch tại Việt Nam trong tháng 10/2022 tiếp tục có
xu hướng gia tăng: cao hơn khoảng 20% so với tháng 9/2022 và cao gấp 11 lần so
với tháng 3/2022. Trong đó, Ấn Độ là 1 trong 10 quốc gia tìm kiếm nhiều nhất về
du lịch Việt Nam. Đáng chú ý, lượng tìm kiếm từ thị trường Ấn Độ đang có xu hướng
tăng khá nhanh, trong tháng 10/2022 tăng gấp 3 lần so với tháng 7/2022 và gấp 2
lần so với tháng 8/2022. Các điểm đến của Việt Nam được du khách Ấn Độ tìm kiếm
nhiều có: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Phú Quốc, Đà Nẵng, Quy Nhơn…
Quả thực, việc lượng khách
du lịch Ấn Độ tới Việt Nam tăng cao như vậy vừa là cơ hội, vừa là thách thức
cho ngành du lịch Việt Nam. Để khai thác triệt để nguồn cơ hội tiềm năng này,
ta cần nắm rõ được giá trị cảm nhận của du khách Ấn Độ với du lịch nước ta. Từ
đó, chúng ta có thể phát huy được những thế mạnh sẵn có và khắc phục những hạn
chế để ngành du lịch ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Chính vì vậy, em quyết định lựa chọn đề tài “Nâng
cao giá trị cảm nhận của khách Ấn Độ đối với
du lịch Việt Nam” là đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.
Mục đích
Nghiên cứu giá trị cảm nhận của du khách Ấn Độ
đối với du lịch Việt Nam, từ đó phát triển các điểm mạnh và khắc
phục những điểm hạn chế.
2.2.
Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở lý
luận về giá trị cảm nhận của du khách
Phân tích, đánh giá
thực trạng giá trị cảm nhận của khách Ấn Độ khi trải nghiệm du lịch Việt Nam.
Đưa ra những giải
pháp, đề xuất nhằm nâng cao giá trị cảm nhận của du khách Ấn Độ đối với du lịch
Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Giá trị cảm nhận của du khách Ấn Độ đối với
du lịch Việt Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về không gian
Các
điểm đến du lịch nổi tiếng tại Việt Nam.
3.2.2. Về thời gian
Từ
tháng 8 năm 2023 đến tháng 1 năm 2024.
3.2.3. Về nội dung
Nêu cơ sở lý luận về
giá trị cảm nhận
Nghiên cứu về giá
trị cảm nhận của du khách Ấn Độ khi sử dụng sản phẩm du lịch của Việt Nam.
Đưa ra giải pháp cụ
thể nhằm nâng cao giá trị cảm nhận của du khách Ấn Độ với du lịch Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chọn mẫu, cỡ mẫu và thu thập số liệu
Chọn mẫu: Nghiên cứu được chọn bằng
phương pháp chọn mẫu định mức. Đối tượng nghiên cứu được chia tổng thể theo
tiêu chí (là du khách Ấn Độ, độ tuổi từ dưới 30 đến trên 65 tuổi, không phân biệt
giới tính, mục đích tới Việt Nam, …). Trong phương pháp chọn mẫu định mức,
nghiên cứu cần số lượng mẫu là 300, người nghiên cứu chia sẻ bảng hỏi cho nhiều
hơn hoặc bằng 300 du khách Ấn Độ đã hoặc đang du lịch tại Việt Nam, miễn là đủ
kích thước mẫu. Việc phát bảng câu hỏi và phỏng vấn được thực hiện trực tiếp và
qua link bảng hỏi.
Cỡ mẫu: Theo Hair và cộng sự (1998), để
có thể phân tích nhân tố khám phá cần thu thập dữ liệu với kích thước mẫu là ít
nhất 5 mẫu trên 1 biến quan sát. Mô hình nghiên cứu có số biến quan sát là 44.
Nếu theo tiêu chuẩn 5 mẫu cho một biến quan sát thì kích thước mẫu cần thiết là
n = 205 (41 x 5). Để đảm bảo thu đủ mẫu và tăng độ chính xác của mẫu nghiên cứu,
kích thước cho mẫu nghiên cứu chính thức này là n = 300. Với số bảng câu hỏi được
phát ra là 350, số lượng bảng câu hỏi thu về đầy đủ thông tin là 315.
Phương pháp thu thập số liệu: Nghiên cứu
được thực hiện bằng phương pháp định lượng thông qua bảng câu hỏi được phỏng vấn
trực tiếp. Đối tượng nghiên cứu là các du khách Ấn Độ đã từng hoặc đang du lịch
tại Việt Nam. Bảng hỏi được đưa lên Google Form với số lượng 41 câu hỏi liên
quan đến 8 biến cần nghiên cứu. Sau đó chia sẻ link Google Form cho 350 du
khách Ấn Độ đã và đang du lịch tại Việt Nam (nguồn khách từ các khách sạn,
khách sử dụng các sản phẩm du lịch Việt Nam). Sau 2 tuần khảo sát và sàng lọc số
liệu, độ tin cậy là 90%, độ lệch chuẩn là 1, và biên độ sai số là 10%. Dự đoán
có khoảng 10% câu trả lời không hợp lệ, vì vậy, số lượng mẫu đạt tiêu chuẩn thu
về được là 315 mẫu. Dữ liệu sau khi được thu thập sẽ tiến hành mã hóa, nhập số
liệu, làm sạch với phần mềm SPSS 25.0.
Phương pháp phân tích số liệu: Để phân tích số liệu
đã thu thập được, công cụ được sử dụng là phần mềm SPSS 25.0. Để lấy thông tin
về mẫu, người nghiên cứu sử dụng phân tích thống kê tần số. Kết quả từ thống kê
tần số giúp chúng ta đánh giá được tổng quát đặc điểm của mẫu nghiên cứu: đáp
viên thiên về nữ giới hay nam giới, chủ yếu là người già hay trẻ, mục đích tới
Việt Nam là gì, … Thống kê tần số trả về kết quả là bảng tần số cho biết số lượng,
tỷ lệ cơ cấu phần trăm của giá trị.
Bên cạnh đó, để xác định thực trạng của đối
tượng nghiên cứu, người nghiên cứu sử dụng thống kê trung bình. Nó được sử dụng
với các biến định lượng, dùng để thống kê các chỉ số phân tích như giá trị
trung bình (mean), giá trị lớn nhất, nhỏ nhất (max, min), độ lệch chuẩn
(standard deviation), ... Thống kê trung bình chỉ dừng lại là mô tả khái quát mức
đánh giá của đối tượng khảo sát ở mức điểm bao nhiêu trên thang đo được sử dụng,
mức điểm nhỏ nhất, lớn nhất và độ lệch chuẩn của mỗi biến quan sát là bao nhiêu.
Sau khi đã thu thập được 315 mẫu dữ liệu, người
viết dùng phương pháp thống kê nhằm tổng hợp các thông tin đã điều tra chuẩn bị
cho quá trình phân tích. Tất cả các thông tin cùng loại được tổng kết với nhau.
Các kết quả sau khi thống kê được tổng hợp phân tích, hệ thống hóa thành những
thông tin hữu ích trong nghiên cứu vấn đề, dưới dạng tệp Excel. Các dữ liệu này
sau đó được chạy trên phần mềm SPSS 25.0 để hỗ trợ trong việc phân tích số liệu
và giải quyết các mục tiêu nghiên cứu, giúp đi đến kết quả thu được kết quả
phân tích cuối cùng, gồm thống kê tần số để lấy thông tin về mẫu và thống kê
trung bình để xác định thực trạng của đối tượng nghiên cứu.
5. Lịch
sử vấn đề nghiên cứu
Theo Đỗ Văn Tính
(2016) giá trị cảm nhận bắt đầu được chú trọng nghiên cứu từ cuối thế kỷ 20 và được
biết đến như một yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại của doanh nghiệp
vì nó là một trong hai khía cạnh tạo nên giá trị thương hiệu và nó thể hiện sự đánh
giá của khách hàng về sản phẩm (dịch vụ).
Giá trị cảm nhận
thay đổi theo bối cảnh thực tế được quan sát trong các công trình của các nhà
nghiên cứu, nhưng hầu như các cách tiếp cận đều cho hướng đến chung một ý
nghĩa: Zeithaml (1988) nhận định “Giá trị cảm nhận
là đánh giá tổng thể của người tiêu dùng cho các sản phẩm, dựa trên nhận thức
được đưa ra trong trao đổi thứ nhận được”. Vì vậy, giá trị cảm nhận mô tả sự
cân bằng giữa các thành phần nổi bật nhất của thứ nhận được trong trao đổi.
Butz và Goldstein (1990) định nghĩa “Giá trị cảm nhận là mối quan hệ cảm
xúc được thiết lập giữa khách hàng và nhà cung cấp sau khi khách hàng đã sử dụng
một sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà cung cấp và thấy rằng sản phẩm hoặc dịch vụ
đó tạo ra giá trị gia tăng”. Anderson cùng cộng sự
(1993) xem giá trị cảm nhận của khách hàng là giá trị được cảm nhận tính
theo đơn vị tiền tệ của lợi ích về mặt kỹ thuật, kinh tế, dịch vụ và xã hội mà
khách hàng có thể nhận được so với giá mà họ trả cho một sản phẩm, đặt trong việc
xem xét giá cả và cho hàng của các nhà cung cấp sẵn có.
Kotler (1994) cho rằng “Giá trị cảm nhận của khách hàng là khoản
chênh lệch giữa những giá trị mà họ nhận được từ việc sở hữu và sử dụng sản phẩm
với chi phí bỏ ra để có được sản phẩm”. Khách hàng không xét đoán những giá
trị sản phẩm và chi phí bỏ ra này một cách hoàn toàn về mặt định lượng, họ xét
đoán theo “cảm nhận”.
Gale (1994) nhận
xét “Giá trị cảm nhận là chất lượng cảm nhận được điều chỉnh cân xứng với
giá cả của sản phẩm”. Woodruff (1997) định nghĩa “Giá trị cảm nhận như
là một sự yêu thích, đánh giá của khách hàng về các đặc tính của sản phẩm. Sự
thể hiện của đặc tính, những kết quả từ việc sử dụng để đạt một cách dễ dàng ý
định và mục tiêu của khách hàng trong các trường hợp sử dụng”.
Moller (2006) cho rằng
giá trị khách hàng là sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí. Nó là phần chênh lệch
giữa lợi ích và chi phí được khách hàng cảm nhận khi mua hàng hóa hoặc dịch vụ.
Kotler và Keller (2006) có quan điểm đồng nhất 2 khái niệm giá trị và giá trị cảm
nhận, đó là phần chênh lệch giữa tổng lợi ích của khách hàng và tổng chi phí
hay các chi phí của khách hàng.
Christopher (1996)
cho rằng giá trị cảm nhận của khách hàng được tạo ra khi lợi ích mà khách hàng
nhận được trong giao dịch vượt qua chi phí. Tai (2011) nhận định giá trị cảm nhận
của khách hàng được xem là cảm nhận của khách hàng về các biểu hiện hoặc sự hữu
dụng của sản phẩm hay dịch vụ của nhà cung cấp.
Sanchez và cộng sự
(2006) cho rằng giá trị cảm nhận của khách hàng luôn thay đổi theo thời gian do
sự thay đổi trong bản thân của khách hàng và các yếu tố khác của môi trường
kinh doanh. Khi nghiên cứu về sự thay đổi này, Setijono cùng với Dahlgaard
(2008) đưa ra mô hình và sử dụng cụm từ “giá trị khách hàng cảm nhận” để mô tả
sự thay đổi giá trị cảm nhận của khách hàng theo thời gian.
Theo
trên thế giới đã có
rất nhiều nghiên cứu về giá trị cảm nhận của khách hàng nhưng ở Việt Nam thì
chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, các giải pháp nâng cao
giá trị cảm nhận của khách chưa được phát triển tối đa (Nguyễn
Hữu Khôi, 2021). Ở Việt Nam, cũng
có một số nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm về giá trị cảm nhận. Theo Nguyễn Thị
Hồng Thắm (2009), giá trị cảm nhận của khách hàng là sự cảm nhận và đánh giá tổng
quát của khách hàng về danh tiếng, chất lượng, giá cả tiền tệ, giá cả hành vi
và phản ứng cảm xúc của khách hàng đối với dịch vụ. Ngoài ra, Phạm Xuân Lan và
Huỳnh Minh Tâm (2013) cho rằng giá trị cảm nhận của khách hàng dựa trên 5 nhân
tố tác động đó là: chủng loại hàng hóa, khả năng phục vụ, trưng bày trong siêu
thị, giá cả cảm nhận và an toàn trong siêu thị với tổng số 20 biến thành phần.
6. Kết cấu
nội dung của khóa luận
- Mở đầu
- Chương 1. Cơ sở lí luận về giá trị cảm nhận
- Chương 2. Giá trị cảm nhận của du khách với du lịch
- Chương 3. Một số giải pháp nâng cao giá trị cảm nhận của du khách Ấn Độ với du lịch Việt Nam
Comments
Post a Comment